Thứ Hai, tháng 2 22, 2016

Khi Ngân hàng trung ương trở thành một thế lực lũng đoạn

     
Liệu có phải chúng ta đang chứng kiến sự lũng đoạn của các ngân hàng trung ương? Liệu chúng ta có phải đang quan sát thấy đặc quyền in tiền của ngân hàng trung ương đang được một số người sử dụng để điều hướng giá cổ phiếu trên thị trường vì lợi ích của giới siêu giàu?

Những câu hỏi này xuất hiện trong suy nghĩ khi chúng ta nhìn thấy Ngân hàng trung ương Thụy Sĩ mua 3,3 triệu cổ phần của Apple trong quý I năm 2015, và mua thêm 500.000 cổ phần nữa trong quý II. Đồng tiền thông minh đã được bán đi chứ không phải mua về.

Hóa ra là Ngân hàng trung ương Thụy Sĩ, ngoài số cổ phiếu Apple đang sở hữu, còn nắm giữ rất nhiều cổ phiếu có giá trị từ 250 triệu USD đến 637 triệu USD trong nhiều tập đoàn khác như Exxon Mobil, Microsoft, Google, Johnson & Johnson, General Electric, Procter & Gamble, Verizon, AT&T, Pfizer, Chevron, Merck, Facebook, Pepsico, Coca Cola, Disney, Valeant, IBM, Gilead, Amazon.

money-usd-afp_KTMS.jpg 

Chuyện gì đang diễn ra ở đây?

Như chúng ta biết, mục đích của ngân hàng trung ương là đóng vai trò người cho vay phương sách cuối cùng (the lender of last resort) đối với các ngân hàng thương mại gặp khó khăn thanh khoản khi chúng phải đối mặt với làn sóng người dân đổ xô rút tiền ra khỏi ngân hàng.

Trong tình huống đó, NHTW sẽ cung cấp cho các NHTM các khoản vay khẩn cấp nhằm bổ sung nguồn tiền mặt để đáp ứng nhu cầu chi trả cho người gửi tiền.

Theo thời gian, mục đích hợp lý ban đầu này dần trở nên không cần thiết nữa do sự ra đời của bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên, các ngân hàng trung ương đã tìm thấy một lý do khác cho sự tồn tại của mình. Chẳng hạn, Cục Dự trữ Liên bang (Fed), dưới qui định của Đạo luật Humphrey – Hawkins, chịu trách nhiệm duy trì tình trạng công ăn việc làm và lạm phát thấp. Vào thời điểm đạo luật này được thông qua, mối quan hệ nghịch biến giữa tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp đã làm cho các mục tiêu trở nên không tương thích. Kết quả là sự ra đời của các chính sách kinh tế phía cung của chính quyền Reagan, cho phép trị khỏi đồng thời căn bệnh lạm phát và thất nghiệp của nền kinh tế.

Không có bất kỳ điều lệ nào của Cục Dự trữ Liên bang lẫn Đạo luật Humphrey – Hawkins nói rằng Fed có trách nhiệm ổn định thị trường cổ phiếu bằng việc mua bán cổ phiếu. Fed chỉ có trách nhiệm mua và bán trái phiếu trên thị trường mở (OMO) nhằm thúc đẩy công ăn việc làm bằng cách duy trì mức lãi suất thấp hoặc kiềm chế lạm phát với mức lãi suất cao.

Nếu NHTW mua cổ phiếu để hỗ trợ giá cổ phiếu, vậy thì câu hỏi là cần có một thị trường cổ phiếu để làm gì? Khả năng tạo tiền của NHTW để hỗ trợ giá cổ phiếu đã phủ định chức năng tạo lập giá của thị trường cổ phiếu.

Vấn đề đối với các NHTW là con người có thể sai lầm, kể cả chủ tịch của Fed cũng như tất cả các quan chức và thành viên của Fed. Nhà kinh tế đoạt giải Nobel Milton Friedman và Anna Schwartz đã khẳng định rằng cuộc Đại suy thoái 1929 – 1933 là hậu quả của sự thất bại của Fed do đã không thể mở rộng chính sách tiền tệ đủ nhằm bù đắp sự thiếu hụt cung tiền đến từ sự phá sản của các ngân hàng thương mại. Khi một ngân hàng phá sản trong kỷ nguyên chưa có bảo hiểm tiền gửi, cung tiền sẽ suy giảm bởi số lượng tiền gửi của ngân hàng giảm. Trong suốt thời Đại suy thoái, hàng nghìn ngân hàng đã phá sản, đánh bật sức mua của hàng triệu người Mỹ và sức mạnh tạo tiền tín dụng của hàng nghìn ngân hàng.

Fed đã bị cấm mua cổ phiếu theo Đạo luật Dự trữ Liên bang. Nhưng bản sửa đổi năm 2010 – Phần 13(3) – đã cho phép Fed được mua tài sản Maiden Lane vỡ nợ của AIG. Bản sửa đổi này cũng tạo ra một lỗ hổng cho phép Fed cho vay các định chế có thể sử dụng các nguồn quỹ để mua cổ phiếu. Như vậy, NHTW Thụy Sĩ có thể đang hoạt động như một đại lý của Fed.

Nếu NHTW không thể điều hành chính sách tiền tệ đúng đắn thì nó có thể điều hành một chính sách cổ phiếu như thế nào được? Một số nhà quan sát tinh ý cho rằng Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ đang hành xử như một đại lý của Fed và mua khối lượng lớn các chứng khoản Mỹ vào những thời điểm quan trọng để ngăn đà giảm giá chứng khoán với nỗ lực đánh bại niềm tin tuyên truyền rằng tất cả đều ổn đối với nền kinh tế Mỹ.

Chúng ta biết rằng chính phủ Mỹ có hẳn một biệt đội gọi là “đội chống lao xuống” (Plunge Protection Team) bao gồm Bộ trưởng Tài chính Mỹ và Chủ tịch Fed [Cả Ủy ban Chứng khoán Mỹ (SEC) và Chủ tịch Ủy ban Giao dịch Hàng hóa Tương lai (CFTC)]. Mục đích của đội này là ngăn chặn sự lao xuống không mong muốn của thị trường chứng khoán.

Sự sụt giám thị trường cổ phiếu vào ngày 20-21/8/2015 là đáng mong đợi hay không đáng mong đợi?

Vào thời điểm này chúng ta không biết. Nhằm giữ cho đồng đô la mạnh lên, cái cốt lõi của quyền lực Mỹ, Fed hứa sẽ tăng lãi suất, nhưng luôn luôn trong tương lai. Tương lai gần nhất là tháng tới. Niềm tin rằng một mức lãi suất cao sẽ giúp giữ cho đồng đô la không bị mất giá so với các đồng tiền khác, và nhờ vậy ngăn chặn sự tháo chạy khỏi đồng đô la làm suy giảm sức mạnh liên kết với Thế giới thứ ba.

Fed có thể nói rằng sự sụt giảm thị trường cổ phiếu cho thấy rằng sự phục hồi vẫn còn dè dặt và đòi hỏi cần phải có thêm các chính sách kích thích mới. Triển vọng thanh khoản nhiều hơn có thể giúp đẩy thị trường chứng khoán tăng trở lại. Khi bong bóng giá tài sản nổi lên trong chính sách của Fed, một sự sụt giảm giá cổ phiếu sẽ xóa tan bong bóng giá cổ phiếu và cho phép Fed in thêm tiền và bắt đầu khởi động một tiến trình mới.

Mặt khác, sự sụt giảm thị trường cổ phiếu vào thứ Năm và thứ Sáu vừa qua chỉ ra rằng những nhà đầu tư trên thị trường đã thấu hiểu thị trường cổ phiếu là quả bong bóng được thổi phồng một cách giả tạo chứ không dựa trên bất kỳ nền tảng thực sự nào. Một khi tâm lý bị phá hủy thì sự bốc hơi lại khởi phát.

Nếu tình trạng bốc hơi diễn ra thực sự, thật thú vị nếu như hành động bơm thanh khoản và mua cổ phiếu của ngân hàng trung ương có thể giúp ngăn chặn được cuộc tháo chạy.

Lược dịch từ Paul Craig Roberts và Dave Kranzler (23/8/2015)

Đăng nhận xét