Chính thức khởi động từ đầu năm 2012, Đề án Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của Thủ tướng Chính phủ đã đi đến chặng cuối cùng (2011 – 2015). Do vậy, để có thêm góc nhìn về những kết quả mà các ngân hàng niêm yết đã đạt được sau giai đoạn này, người phân tích đã tập trung tìm hiểu những thay đổi về cơ cấu tài sản (có) của các ngân hàng tại thời điểm cuối quý 3/2015 so với trước thời điểm thực hiện tái cơ cấu (2011).
So với thời điểm cuối năm 2011, bảng cân đối tài sản của các ngân hàng niêm yết đã có sự dịch chuyển với cơ cấu an toàn hơn. Trong đó, chúng tôi nhận thấy VCB là ngân hàng có cơ cấu tài sản cân bằng nhất với khoảng 56,6% tập trung vào cho vay khách hàng, 23,4% vào cho vay liên ngân hàng và khoảng 13,6% vào chứng khoán đầu tư. Có thể thấy, so với cơ cấu tài sản cuối năm 2011, cơ cấu tài sản của VCB biến động không nhiều, thể hiện định hướng xuyên suốt của Ngân hàng về việc đảm bảo cơ cấu tài sản cân bằng và an toàn.
Điểm chung ở các ngân hàng còn lại là có sự biến động đáng kể giữa tỷ trọng cho vay liên ngân hàng và tỷ trọng cho vay khách hàng. Còn nhớ, giai đoạn 2011 – 2012, không ít ngân hàng đã tham gia “cuộc chơi liên ngân hàng” và gặp khó khăn từ đó. Các NHTM cổ phần gồm ACB, EIB, MBB và SHB là những ngân hàng có tỷ trọng cho vay liên ngân hàng cao và tỷ lệ cho vay khách hàng khá thấp so với mức trung bình ngành. Tại thời điểm cuối quý 3/2015, các ngân hàng này đã điều chỉnh tỷ lệ này về mức hợp lý hơn. Trong đó, cơ cấu tài sản của MBB cũng có sự dịch chuyển khá cân bằng, với tỷ trọng cho vay liên ngân hàng giảm còn 14,5%, cho vay khách hàng và chứng khoán đầu tư lần lượt tăng lên 53,8% và 19,6%. Trong khi đó, ACB, EIB và SHB đồng loạt giảm mạnh hoạt động cho vay liên ngân hàng và tăng mạnh cho vay khách hàng.
So với năm 2011, hầu hết các ngân hàng đều tăng đầu tư vào trái phiếu chính phủ tại thời điểm cuối quý 3/2015. Trong đó, MBB có mức tăng mạnh nhất, từ 9,4% trong năm 2011 lên khoảng 15,3% vào cuối quý 3/2015. Theo tìm hiểu của chúng tôi, các khoản đầu tư trái phiếu này của MBB bao gồm trái phiếu Chính phủ và trái phiếu Chính phủ bảo lãnh với lãi suất khá hấp dẫn, dao động từ 6% đến 14,4%.
Về biến động tỷ lệ nợ xấu, ngoại trừ BID có tỷ lệ này biến động theo xu hướng giảm, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng còn lại đạt đỉnh trong giai đoạn 2012 – 2014 và giảm trở lại vào cuối quý 3/2015. Xem xét thêm nợ nhóm 2 và nợ xấu, xu hướng diễn ra khả quan hơn khi tỷ lệ này đạt đỉnh trong năm 2012 và đã giảm mạnh vào cuối quý 3/2015. Cùng với những nỗ lực của NHNN thì các ngân hàng cũng đã hy sinh ngắn hạn trong việc giảm lợi nhuận để tăng dự phòng rủi ro và xử lý nợ xấu. Bình quân trong giai đoạn 2011 – Q3/2015, các ngân hàng đã dành khoảng 26,4% - ~52% lợi nhuận hoạt động cho việc trích lập dự phòng nợ xấu. BID và VCB là hai ngân hàng có tỷ lệ trích lập dự phòng bình quân cao nhất, lần lượt ở mức 51,5% và 41,3%. Mặc dù vậy, do giá trị nợ xấu có mức tăng trưởng nhanh hơn so với mức tăng trưởng tín dụng, 82% so với 75%, các chỉ tiêu về dự phòng bao nợ xấu vào cuối Q3/2015 của hầu hết ngân hàng đều thấp hơn so với năm 2011.
Tựu trung, chúng tôi nhận thấy đã có sự dịch chuyển tích cực hơn nếu xét riêng trên khía cạnh cơ cấu tài sản của các ngân hàng niêm yết. Trong nhóm này, chúng tôi đánh giá cao nhất VCB và MBB với cấu trúc tài sản cân đối và chất lượng phân loại nợ. Trong khi đó, các ngân hàng với tỷ trọng Cho vay khách hàng chiếm tỷ lệ cao (trên 65%) đều cho thấy sự ít thận trọng hơn trong việc phân loại nợ và trích lập dự phòng. Mặc dù vậy, trong điều kiện thị trường bất động sản ấm dần và hoạt động sản xuất đang từng bước phục hồi, cùng với sự hậu thuẫn của VAMC thông qua việc mua lại nợ xấu của các ngân hàng, chúng tôi cho rằng các rủi ro do nợ xấu gây ra không còn đáng lo ngại như trước khi thực hiện tái cấu trúc.
Đăng nhận xét